Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

Đại Việt đã từng đánh thắng quân nhà Tống bên Tàu

http://chimviet.free.fr/lichsu/chung/lsu0050.htm
LÝ THƯỜNG KIỆT VÀ TRẬN ĐẠI THẮNG Ở NHƯ NGUYỆTNĂM ĐINH TỴ (1077) TRONG TÌNH CẢM CỦA ĐẠI THIỀN SƯ PHÁP BẢO
NGUYỄN KHẮC THUẦN
Lý Thường Kiệt vốn có họ và tên thật là Ngô Tuấn, người làng Bắc Biên, xã Phúc Xá (nay thuộc xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội), sau ông dời nhà về định cư phường Thái Hòa (nay thuộc nội thành Hà Nội).Ngô Tuấn tự là Thường Kiệt, sau vì có công, được triều đình ban thưởng rất trọng hậu, lại còn cho lấy theo họ của Hoàng Đế nhà Lý, đương thời liền nhân đó ghép họ được ban với tên tự mà gọi là Lý Thường Kiệt, mãi rồi thành quen, khiến cho không ít hậu sinh quên mất cả họ lẫn tên thật của ông.Ông sinh năm Kỷ Mùi (1019), mất năm Ất Dậu (1105), hưởng thọ 86 tuổi.
Trong quân sự, Lý Thường Kiệt là bậc đại danh tướng, là linh hồn của những chiến công lớn nhất lịch sử nươc nhà trong thế kỷ thứ XI ; Trong chính trị, Lý Thường Kiệt là đấng đại danh thần, là chỗ dựa tin cậy và vững chắc của nhà Lý, nhất là dưới thời trị vì của Hoàng Đế Lý Nhân Tông (1072-1127) ; Trong lịch sử văn học, Lý Thường Kiệt là cây đại bút, tác giả của Nam quốc sơn hà - áng hùng thi có giá trị thiêng liêng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước nhà.Trong bộ bách khoa toàn thư đồ sộ của mình là Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), nhà bác học Phan Huy Chú viết về Lý Thường Kiệt như sau :"Ông là người giàu mưu lược lại rất có biệt tài làm tướng súy, từng làm quan trải thờ đến ba đời Hoàng Đế (gồm Lý Thái Tông : 1028-1254 , Lý Thánh Tông : 1054-1072 và Lý Nhân Tông : 1072-1127 - NKT), phá Tống, bình Chiêm, công lao đức vọng ngày một lớn, được sủng ái, thật xứng là người đứng đầu các bậc công hầu vậy ". 
Năm 1069, Lý Thường Kiệt được cùng với Hoàng Đế Lý Thánh Tông cầm quân đánh thẳng vào Nam, trừng trị đích đáng hành vi quấy phá của Chiêm Thành và bẻ gãy mưu đồ lợi dụng Chiêm Thành mà nhà Tồng đã công phu chuẩn bị từ nhiều năm trước.Năm 1075, Lý Thường Kiệt là người trực tiếp vạch kế hoạch, đồng thời cũng là tướng tổng chỉ huy quân đội Đại Việt, bất ngờ tiến như vũ bão sang Trung Quốc, san bằng ba căn cứ lớn ở Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu, tiêu diệt một phần tiềm năng quân sự rất quan trọng của nhà Tống.Năm 1077, một lần nữa, Lý Thường Kiệt vừa là người trực tiếp vạch kế hoạch, lại cũng vừa là tướng tổng chỉ huy quân dân Đại Việt trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống quân Tống xâm lăng.Với trận đại thắng lẫy lừng ở trận quyết chiến chiến lược Như Nguyệt (tháng 3 năm Đinh Tỵ - 1077), tên tuổi của Lý Thường Kiệt đã trở nên bất diệt với lịch sử nước nhà.Dư âm của trận Như Nguyệt vang khắp bốn phương, khiến cho các nhà tu hành Phật Giáo lúc bấy giờ cũng không ngớt lời tán thưởng.
Sau trận đại thắng ở Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt được bổ làm Tổng Trấn Thanh Hoa (đất này từ thời Thiệu Trị mới vì lệ kỵ húy mà đổi gọi là Thanh Hóa).Bấy giờ có thầy học của Linh Nhân Hoàng Thái Hậu (tức bà Ỷ Lan - thân mẫu của Hoàng Đế Lý Nhân Tông) là Sùng Tín Đại Trưởng Lão từ Thăng Long vào chơi, Lý Thường Kiệt liền nhờ Sùng Tín Đại Trưởng Lão tìm đất để dựng chùa và Sùng Tín Đại Trưởng Lão đã chọn khu đất nằm ở phía Nam núi Ngưỡng Sơn.Đất này xưa thuộc xã Ngọ Xá, huyện Vĩnh Lộc, nay thuộc xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.Chính Lý Thường Kiệt là người đã trực tiếp trông coi việc xây cất ngôi chùa này.Sau bốn năm (1085-1089) thì khánh thành, Lý Thường Kiệt đặt cho tên gọi là chùa là Linh Xứng.
Từ khi có thêm chùa Linh Xứng , Phật Tử vốn dĩ đã rất nể trọng Lý Thường Kiệt lại càng có phần nể trọng hơn.Thiền Sư Thích Pháp Bảo (tức Giác Tính Hải Chiếu Đại Sư) là người có cơ may được chứng kiến sự kiện khá đặc biệt này.Theo ghi chép của các thư tịch cổ như : Vĩnh Lộc huyện phong thổ chí lược, Ái Châu bi ký, Thanh Hóa tịnh chí, àv.v. thì sau khi Lý Thường Kiệt qua đời, chính Thích Pháp Bảo là người đã có vinh dự được giao việc soạn bài văn bia cho chùa Linh Xứng.Và, Thích Pháp Bảo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khó khăn này.Khoảng đầu thế kỷ XX, chùa Linh Xứng bị đổ nát hoàn toàn, tuy nhiên, tấm bia trên đó có khắc bài Ngưỡng sơn Linh Xứng tự bi minh (bài minh khắc trên bia để tại chùa Linh Xứng ở Ngưỡng Sơn) do Thích Pháp Bảo soạn thì vẫn còn.Đó thực sự là một trong những tác phẩm văn học sáng giá của thế kỷ thứ XI.Bài này khá dài, vì thế, chúng tôi chỉ xin trích dịch và giới thiệu với bạn đọc vài ba trích đoạn ngắn mà thôi.
Thứ nhất là tr1ch đoạn kể về việc xây dựng dựng chùa Linh Xứng : " Thế là cùng nhau phát hết những bụi cỏ rậm, bạt hết những tảng đá to ; Thầy phong thủy thì xét hướng, thợ lành nghề thì vẽ kiểu, các quan thì góp tiền, sĩ dân khắp nơi cũng cùng nhau kéo tới ; Bấy giờ, ai kém sức thì bào hoặc gọt, ai giỏi nghề thì dựng hoặc xây ; Chùa Phật rộng thênh thang nằm ở giữa còn phòng chay rộng rãi thì ở hai bên ; Phía sau chùa có tháp Chiêu An cao chót vót những chín tầng.Chùa mở cửa bốn bên và cửa nào cũng có song tiện, phía trong lại có rèm the.Tiếng gió rung chuông bạc quyện với tiếng chim rừng ; Nắng soi tháp báu, sắc vàng điệp lung linh ; Quanh lan can trồng đầy hoa cỏ à đúng là cảnh thức tỉnh hồn mê, xua tan mọi nỗi niềm tục lụy ".
Đoạn thứ hai là những lời ca ngợi công đức của Lý Thường Kiệt, chân thành, thắm thiết và cũng thật là cảm động :"Lúc còn trẻ, Thái Úy (chức của Lý Thường Kiệt - NKT) được chọn vào cấm đình, hầu Thái Tông Hoàng Đế chưa đầu một kỷ (một kỷ là mười năm - NKT) mà tiếng thơm đã nức nở khắp hoàng cung.Đến khi Thánh Tông Hoàng Đế nối ngôi trị nước, Thái ÚÔy lại hết lòng phò ta, là người luôn ra sức siêng năng, thật là nổi bật trong hàng tả hữu, cho nên mới được gia phong hàm Kiểm Hiệu Thái Bảo.Khi nước Phật Thệ (tức Chiêm Thành - NKT) khinh nhờn phép tắc, chẳng chịu vào chầu, vương sư liền rầm rộ tiến đánh.Thái Úy thao lược hơn đời, được vào cấm cung để nhận mưu chước, ước chế quân luật thật nghiêm để đánh quân thù. Hoàn Vương (chỉ vua Chiêm Thành -NKT) hết đường chạy trốn, đành phải tự bó tay mà chịu cắt tai ".
"Đầu niên hiệu Thái Ninh (niên hiệu của Hoàng Đế Lý Nhân Tông, dùng từ năm 1072 đến năm 1076 - NKT) đức kim thượng Minh Hiếu Hoàng Đế (chỉ Lý Nhân Tông - NKT) lên ngôi, Thái Úy với tư cách là Y Doãn, Hoắc Quang (hai danh thần của Trung Quốc đời nhà Thương và đời nhà Hán đã có công phò tá Hoàng Đế Trung Quốc lúc còn tuổi ấu thơ, đây chỉ việc Lý Thường Kiệt là Phụ Chính Đại Thần của Lý Nhân Tông - NKT) được Hoàng Thượng giao quyền nhiếp chính và gửi gắm công việc xã tắc.Bỗng chốc, quân biên ải của nhà Tống dòm ngó nước ta, Thái Úy sẵn mưu chước của triều đình, thống lĩnh quân sĩ, tràn sang diệt hết cả ba châu (chỉ Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu - NKT) và bốn trại (chỉ bốn trại lính lớn của nhà Tống ở Ung Châu là Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình và Cổ Vạn - NKT)dễ dàng như bẻ cành gỗ mục.Chẳng bao lâu sau, giặc lại ồ ạt kéo đến sông Như Nguyệt, sục sôi quyết chí trả thù cho ba châu, Thái Úy liền cầm quân ra chống trả".
"Thái Úy vào trong thì sáng suốt khoan hòa, ra ngòi thì nhân từ giản dị, đổi dời phong tục nào có quản công, việc gì cũng siêng năng, sai bảo dân thì ôn hòa, cho nên, đời được cậy nhò chẳng phải ít".
"Thái Úy tuy thân vướng việc đời mà lòng vẫn luôn hướng về Tam Thừa (chỉ Tiểu Thừa, Trung thừa và Đại Thừa, tức là Phật Giáo nói chung - NKT) có lẽ vì Hoàng Thượng và Thái Hậu thực tâm tôn sùng giáo lý nhà Phật chăng ?Cho nên, vâng theo ý chỉ của Hoàng Thượng và Thái Hậu, Thái Úy không ngừng nâng đỡ Phật Giáo . Nhân lúc rảnh việc triều đình, thầy của Thái Hậu là Sùng Tín Đại Trưởng Lão mới từ kinh sư đi vào, mở mang giáo hóa, khơi thông tập tục mới lạ, răn điều ác, trọng việc thiện, khác nào cây cỏ được nhuần thấm trận mưa rào, cho nên, không ai là không vui tươi hớn hở." 
Kết thúc Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh là phần văn vần khá dài, lời lẽ giản dị mà hùng tráng, vùa tỏ được cái tâm khả kính của người tu hành, lại cùng vừa ngời sáng niềm kiêu hãnh của một thần dân trước sự nghiệp phi thường của bậc vĩ nhân Lý Thường Kiệt.Xin được giới thiệu một trích đoạn ngắn như sau : 
Việt hữu Lý công, 
Cổ nhân chuẩn thức.
Mục quận ký ninh, 
Chưởng sư tất khắc.
Danh dương hàm hạ, 
Thanh chấn hà vực.
Tông giáo quy sùng, 
Cảnh phúc thị thực.
Nghĩa là : 
Nước Việt có tướng công người họ Lý, 
Noi theo đúng thể thức của người xưa. 
Trị dân thì dân được yên, 
Xuất quân thì tất thắng.
Tên tuổi vang lùng khắp cõi, 
Tiếng thơm nức bốn phương.
Thuận theo và tôn sùng Phật Giáo, 
Giữ gìn phúc đức quả là đây.
Trong thư tịch cổ, hình như viết về danh nhân Lý Thường Kiệt, hiếm thấy tác phẩm nào có lời lẽ cảm động như Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh . Văn bia còn, cái tâm mhời sáng của Thích Pháp Bảo cũng mãi còn với "vạn cổ thử giang sơn" (muôn đời non nước này). 
NGUYỄN KHẮC THUẦN

Angkor Wat và Đại Việt

Có đến Đế Thiên Đế Thích Cambodia mới thấy thực lực thời thế kỉ 11 của đến quốc Chân Lạp hùng mạnh như thế nào! Từ thế kỉ thứ 9 cho đến đầu thế kì 11 các hoàng đế Đế quốc Chân Lạp đầy tham vọng muốn chiếm trọn Đại Việt, Chiêm Thành nên có khi nó liên kết với nhà Tống bên Tàu thành một khối để thực hiện mưu đồ xóa sổ Đại Việt. Dấu ấn lịch sử "Đánh Tống Bình Chiêm" thời Lý Thường Kiệt đã ghi lại dấu son rực rỡ một thời Đại Việt hùng mạnh trước "trên đe dưới búa" cho hậu thế chúng ta nhận ra một điều "Tổ tiên chúng ta đã từng bất khuất trước mọi kẻ thù dù lớn hay nhỏ, dù đông hơn ta rất nhiều, dù mưu sâu kế độc đến đâu. Hãy đọc lịch sử Việt Nam và không thể nào đục bỏ sử Việt để giáo dục truyền thống oai hùng cho thế hệ con cháu Việt Nam ra sức tô thắm sử vàng oanh liệt của tổ tiên mình. Đó là trách nhiệm của người trí thức.
 Nghiên cứu để hiểu rõ hơn về lịch sử chiến đấu của người Việt Nam từ thế kỉ thứ 11.

THAM VỌNG CỦA HOÀNG ĐẾ SUYRAVARMAN II
HOÀN TOÀN BỊ CHÔN VÙI TẠI ĐẠI VIỆT NĂM 1150
***Trần viết Điền 
Sau 65 năm dời đô về Thăng Long, tính từ mốc lịch sử 1010, các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tôngđã củng cố và phát triển Đại Việt một cách bền vững. Nhân tài vật lực tụ hội, triều đình với quan văn quan võ kiệt xuất đã làm bừng sáng Thăng Long. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lấy lại những phần đất của tổ tiên ở phương nam đã bị nước Chiêm lấn chiếm, triều Lý đã cắm một mốc son chói lọi vào năm 1076. Thật vậy, cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của liên minh Tống-Chiêm-Chân Lạp năm 1076 là một thử thách lớn lao đối với Đại Việt. Triều Lý ở Thăng Long, đứng đầu là Lý Nhân Tông, đã chèo lái con thuyền Đại Việt vượt qua bão táp phong ba 1076 rất oanh liệt, đầy trí dũng, minh chứng sự sáng suốt của Lý Thái Tổ khi quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Các nhà sử học đã nghiên cứu sự kiện lịch sử 1076 khá sâu và đã từng công bố, thu hút sự chú ý của độc giả, khán thính giả của các phương tiện truyền thông đại chúng. Cũng vì lẽ đó, một số sự kiện lịch sử quan trọng khác đôi khi chưa được quan tâm đúng mức, chưa được đánh giá đúng tầm, thậm chí có thể bị đại chúng quên lãng.

Tượng Lý Thái Tổ (G.W)

Tượng Lý Thái Tôn (G.W)

Tượng Lý Thánh Tông (G.W)

Tượng Lý Nhân Tông (G.W)
Trong tâm cảm "Từ thuở mang gươm đi mở nước, ngàn năm nhớ mãi đấtThăng Long", chúng tôi mạo muội đặt vấn đề: Các nhà sử học thường nêu bật công lớn của bốn vua triều Lý với cụm từ "phá Tống bình Chiêm", và các nhà nghiên cứu lại tập trung vào những sự kiện liên quan Tống, Chiêm. Trong khi đó, vào thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông trị vì, Đại Việt đã nhiều lần bẻ gãy ý đồ xâm lược Đại Việt của vua Suyrayavarman II, vị vua kiệt hiệt của đế quốc Chân Lạp, thì ít nhắc đến. Đến thế kỷ 12, Suyrayavarman II từng tiêu diệt nhiều vương quốc ở Đông Nam Á để bành trướng lãnh thổ, nhiều lần xâm lược Đại Việt nhằm thôn tính nhưng không thành công, để rồi hoàn toàn thất bại đầy tủi hận khi phải mất mạng trong lần thân chinh đánh phá Đại Việt năm 1150.
Trước khi đi vào giai đoạn lịch sử bi tráng của Đại Việt và đế quốc Chân Lạp thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông và Suyrayavarman II trị vì, thiết tưởng điểm qua bối cảnh lịch sử chính trị, ngoại giao, quân sự của vài đời vua Lý, vua Chiêm và vua Chân Lạp trước Lý Thần Tông, Suyrayavarman II, Jaya Harivarman VI:
Trước hết điểm qua thực lực của các nước Tống, Chiêm, Chân Lạp thuộc liên minh chống Đại Việt để thấy tư thế vững mạnh của Đại Việt lúc ấy :

Bản đồ thế giới vào thế kỷ 12 (G.W)
Đến năm Bính Thìn [1076], Thái Ninh năm thứ 5, triều đình Tống Thần Tông, kinh đô Khai Phong, đang phải đối phó với nước Kim, nước Liêu ở phía Bắc và nội bộ đang chia rẽ trầm trọng, nhưng vì nước Tống là một đại quốc, đang hận chưa lấy được Đại Việt mà còn bị Đại Việt đánh vào châu Ung, châu Khâm trước đó nên họ vẫn quyết tâm đánh chiếm Đại Việt. Triều đình Tống Thần Tông từ kinh đô Khai Phong rất thâm độc khi liên minh với Chiêm và Chân Lạp ở phía tây nam Đại Việt, nhằm tiêu diệt Đại Việt đang tự cường và tự chủ.

Tống Thần Tông (G.W)
(vua nhà Tống, rất thâm độc khi liên minh với Chiêm và Chân Lạp, năm 1076,
nhằm xâm chiếm và sát nhập Đại Việt vào đồ bản Trung Hoa)
Còn nước Chiêm Thành mặc dầu đã bị Đại Việt đánh bại nhiều lần trước đó, thậm chí bị đế quốc Chân Lạp cướp phá, nhưng đến năm 1074, hoàng thân Than lên ngôi xưng là Harivarman IV (1074- 1080), nước Chiêm Thành phục hưng và vua Harivarman IV cho dựng lại kinh đô Indrapura (Quảng Nam) đã bị bỏ từ lâu, cho trùng tu khu thánh địa Mỹ sơn và xây mới nhiều đền đài tráng lệ. Ông vua Chiêm Thành này có thực tài nên vô hiệu hóa một chiến dịch quân sự của Đại Việt, do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, đánh vào Chiêm Thành năm 1075.

Thánh địa Mỹ Sơn(G.W)
Lúc bấy giờ Chân Lạp với kinh đô Aêngko đã trở thành đế quốc, nhiều lần định thôn tính Chiêm Thành nhưng Harivarman IV của Chiêm Thành cũng chống trả sự xâm lược của đế quốc Chân Lạp. Thật vậy, sau khi vua Suryavarman I tài ba của đế quốc Chân Lạp, ngự trị ở Aêng ko, mất vào năm 1050, thì 2 người con là Udayadityavarman II và Harshavarman III thừa kế sự nghiệp. Thời kỳ từ 1050 đến 1066 này ở Chân lạp lại loạn lạc cho đến tận năm 1066. Sau năm1066 Harshavarman III có thực quyền, thống nhất được đất nước, liền nhiều lần thân chinh đi đánh Chiêm Thành nhưng không thành công trọn vẹn.

Một ngôi đền ở Ăngko do Harshavarman III xây dựng(G.W)
Tuy Tống- Chiêm- Chân Lạp liên minh đánh Đại Việt nhưng không chặt chẽ, chủ yếu vẫn là quân Tống tham chiến dưới sự chỉ huy của Chiêu thảo sứ Quách Quỳ. Khi liên minh này xâm lược Đại Việt vào tháng 3, mùa xuân năm Bính Thìn [1076] đã bị Đại Việt đánh bại, quân xâm lược Tống phải đền tội hơn 1000 binh. Vua Lý Nhân Tông anh minh đã sai Lý Thường Kiệt thống lĩnh đại quân để chống quân Tống. Với tổng chỉ huy tài ba Lý Thường Kiệt, quân Đại Việt đã làm nên đại thắng ở đại phòng tuyến Như Nguyệt lẫy lừng trong lịch sử. Vua Lý Nhân Tông vẫn ngự ở kinh đô Thăng Long để đọc thư báo tiệp mỗi ngày.

Tượng đài Lý Thường Kiệt (G.W)
Trên đây, chỉ điểm lại vài nét của mốc son 1076, ghi dấu Đại Việt chiến thắng oanh liệt trong cuộc xâm lược của liên minh Tống, Chiêm, Chân Lạp, xin được chuyển qua nội dung chính của bài viết.
Thế kỷ 11, 12 Chân Lạp đang trên đà mở mang lãnh thổ, chiếm nhiều đất đai của Chiêm Thành, Thái, Lào, Miến để phát triển thành đế quốc Chân Lạp. Vì các vua Chân Lạp từ 1000 đến 1128 phải giải quyết những bất ổn về nội trị, phải chống trả những cuộc xâm lược của Champa do Harivarman IV thân chinh. Và do những chiến công "phá Tống bình Chiêm" vang dội của Đại Việt dưới thời Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông nên đế quốc Chân lạp luôn giữ mối bang giao hòa hiếu với Đại Việt. Đại Việt sử ký toàn thư chép những năm Chân Lạp có cử sứ giả sang Đại Việt để bang giao: 1012, 1014, 1020, 1025, 1026, 1039, 1056, 1077, 1089, 1120, 1123. Thời kỳ này, chỉ một lần ngoại giao giữa Đại Việt và đế quốc Chân Lạp có xấu đi khi đế quốc Chân Lạp liên minh với Tống trong cuộc xâm lược năm 1076, trên danh nghĩa chứ không thực sự tham chiến. Sau khi Harshavarman III tử nạn, do Harivarman IV của Champa gây ra, khi vua này thân chinh đánh phá Aêngko vào 1080. Sau cái chết của Harshavarman III là thời kỳ trị vì của Jayavarman VI (1080 - 1107 ) và Dharanindravarman I(1107 - 1113), nói chung hai ông vua này không có gì nổi bật. Năm 113, người cháu trai của Dharanindravarman I làm cuộc đảo chánh dân sự, giết vua Dharanindravarman I để cướp ngôi và trở thành vị vua kiệt xuất Suryavarman II của đế quốc Chân Lạp. Và kể từ khi ông vua đầy tham vọng và hiếu chiến này lên ngôi, tình hình Đông Nam Á đầy bất ổn, luôn xảy ra xây dựng lớn mà tàn phá cũng lớn. Giữa Đại Việt và đế quốc Chân Lạp không còn hòa hiếu như xưa, vì tham vọng quá lớn của Suyrayavarman II.

Suyrayavarman II được khắc trên một phù điêu bằng đá ở Angko Wat(G.W)
Dưới triều đại của Suyrayavarman II, ở kinh đô Aêngko, ngôi đền lớn nhất Ăngko Wat được xây dựng trong khoảng thời gian 37 năm. Angko Wat là nơi thờ thần Vishnu. Vương quốc Haripunjaya của dân tộc Môn (nay là miền Trung Thái Lan) bị Suyrayavarman II thôn tính. Một khu vực xa hơn về phía tây của vương quốc Pagan (nay là Myanmar )cũng bị Suyrayavarman II xâm chiếm và nhập vào đồ bản của đế quốc Chân Lạp. Phía nam, Suyrayavarman II cũng lấn đến vương quốc Grahi (nay là tỉnh Nakhon Si Tham marat của Thái Lan) thuộc khu vực bán đảo Malay. Về phía đông, nhiều vùng của Chiêm cũng bị sáp nhập vào đế quốc Chân Lạp. Về phía bắc, các vùng đất song song với Đại Việt, đến biên giới phía bắc của Lào ngày nay cũng bị Suyrayavarman II thôn tính. Như thế thời Suyrayavarman II đế quốc Chân Lạp có lảnh thổ với diện tích gấp 10 diện tích lãnh thổ Đại Việt.

Quang cảnh Ăngko Wat do Suyrayavarman II xây dựng 37 năm(G.W)

Bản đồ đế quốc Chân Lạp vào thời Suyrayavarmann II(G.W)
Vào năm 1080, sau khi hòa hoãn với Đại Việt, vua Harivarman IV của Champa đã xua quân đánh đế quốc Chân Lạp, chiếm Sambor (bắc Phnom Penh và đông hồ Tonle Sap), giết vua Harshavarman III, tàn phá kinh thành Somesvara (Angkor), bắt nhiều người Chân Lạp làm tù binh. Năm 1145, vua Suryavarman II của Chân Lạp phục thù, đánh Champa chiếm Đồ Bàn, tàn phá khu thánh địa Mỹ sơn. Mãi đến năm 1149 vua Chiêm mới đuổi được quân xâm lược.

Ảnh chụp vệ tinh bình đồ kinh đô Ăngko của đế quốc Chân Lạp(G.E)

Phù điêu đá chạm nổi đoàn binh của vua Chân Lạp ra trận ở Ăngko(G.W)
Năm 1128, Suyrayavarman II hòa hoãn với Harivarman V của Champa để dồn sức tấn công Đại Việt. Sau khi vua Lý Nhân Tông băng hà ngày 4 tháng chạp năm Đinh Mùi[1127] tại điện Vĩnh Quang, ngày 8 tháng chạp linh cửu quàng ở điện Hồ Thiên, Hoàng thái tử Lý Dương Hoán lên ngôi trước linh cửu, chưa kịp táng tiên đế, chưa đầy hai tháng quốc tang thì Suyrayavarman II đã cử quân tướng 2 vạn sang xâm lược Đại Việt từ ngày 29 tháng giêng Mậu Thân [1128]. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Mậu Thân, Thiên Thuận năm thứ 1[1128]. Mùa xuân, tháng giêng...Ngày Giáp Dần, hơn hai vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem các quan chức đô cùng người châu Nghệ An đi đánh.". Quân Chân Lapl hơn hai vạn, của một đế quốc với lãnh thổ rộng gấp mười Đại Việt, với sự lãnh đạo của một hoàng đế kiệt hiệt như Suyrayavarman II, đã từng thôn tính nhiều vương quốc, thì đây là một cuộc xâm lược đích thực, không dừng lại ở mức cướp bóc! Vua Lý Nhân Tông đã tiên liệu khi để lại di chiếu, có đoạn dặn dò : "...Mà thái tử Dương Hoán tuổi đã tròn một kỷ[12 tuổi], có nhiều đại độ, thông minh thành thật, trung nghiêm kính cẩn, có thể theo phép cũ của trẫm mà lên ngôi hoàng đế. Nay kẻ ấu thơ chịu mệnh trời, nối thân ta truyền nghiệp của ta, làm cho rộng lớn thêm công nghiệp đời trước. Nhưng cũng phải nhờ quan dân các ngươi một lòng giúp rập mới được. Này Bá Ngọc, ngươi có khí lượng của người già cả, nên sửa sang giáo mác, để phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng không di hận. Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ áo trở, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế..."(sdd, tr 296). "Việc không ngờ" đâu chỉ "biến động giành ngôi của các thân vương" mà còn nạn ngoại xâm của các lân bang nữa. Ngày Quí Hợi tháng hai, tướng Lý Công Bình đã đánh bại quân xâm lược Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt được chủ tướng và quân lính. Ngày Đinh Mão, tháng 2, khi các quan dâng biểu mừng vua lên ngôi thì cũng là ngày nhận thư báo thắng trận của Lý Công Bình gửi về kinh sư. Tháng 3, Lý Công Bình đem binh về kinh sư, dâng tù 169 người.

Tượng Lý Thần Tông(G.W)
Bị thua đau vào cuối tháng giêng, chỉ hơn nửa năm, vào tháng 8, hoàng đế Suyrayavarman II lại lệnh cho một đạo quân lớn gồm 700 thuyền chiến lại đánh phá ở hương Đỗ Gia thuộc châu Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh). Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai tướng Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hóa, tướng Dương Ổ ở châu Nghệ An đem quân đánh và phá được giặc. Suyrayavarman II lại gửi hoàng đế Lý Thần Tông một phong quốc thư, yêu cầu Đại Việt cử sứ giả sang Chân Lạp. Vua Đại Việt không thèm trả lời.
Bốn năm sau, Nhâm Tý [1132], Thiên Thuận năm thứ 5, Suyrayavarman II của Chân lạp cử tướng hội quân cùng với Chiêm Thành lại đánh châu Nghệ An. Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai Thái úy Dương Anh Nhĩ huy động quân binh ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An chống trả mạnh mẽ, kết quả phá tan quân xâm lược.
Năm Ất Mão [1135], Thiên Chương Bảo Tự năm thứ 3, không xâm lược được Đại Việt, Chân Lạp và Chiêm Thành chuyển qua hòa hoãn đều cử sứ giả sang Đại Việt. Chỉ hai năm sau, vào năm Đinh Tỵ [1137], Thiên Chương Bảo Tượng năm thứ 5, Suyrayavarman II, chưa nguôi hận, lại sai tướng Phá Tô Lăng đưa quân đánh phá châu Nghệ An. Mặc dầu sử Việt không ghi chép số lượng quân Chân Lạp, nhưng có thể đoán định quân xâm lược phải có số quân lớn đáng kể, vì hoàng đế Lý Thần Tông phải xuống chiếu sai Thái úy Lý Công Bình đem quân đi đánh. Chỉ một tháng sau, vừa địch họa lại gặp động đất "nước sông đỏ như máu", nhưng Thái úy Lý Công Bình cũng đánh tan được quân giặc.
Thế kỷ thứ 12, Champa vào thời vua Jaya Indravarman V [1086-1139]đã liên minh với Chân Lạp để gây chiến tranh chống lại với Đại Việt. Sau những lần xâm lược Đại Việt không thành công, Suyrayavarman II của đế quốc Chân Lạp quay ra nghi ngờ vương quốc Champa, dưới triều vua Jaya Indravarman III [1139-1145], đang liên minh với Đại Việt, quyết định tuyên chiến với Chiêm vào năm 1145. Quân đội viễn chinh của đế quốc Chân Lạp xâm lược Chiêm, chiếm thành Đồ Bàn, vua Jaya Indravarman III mất tích, và Suyrayavarman II đặt quyền cai trị ở lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành. Trước tình hình nguy ngập này, vua Jaya Indravarman VI [1139-1147], thủ lĩnh một tiểu vương quốc Panduranga, quyết định nổi dậy chống cuộc xâm lăng của đế quốc Chân Lạp. Vua Jaya Harivarman VI [1147-1163] kế tục nghiệp kháng chiến và hoàn toàn thắng lợi năm 1149, giải phóng thủ đô Đồ Bàn và đưa Chiêm Thành thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Chân Lạp.

Sơ đồ đường rút lui khỏi Chiêm Thành và xâm lấn Đại Việt
của đoàn quân do Suyrayavarman II chỉ huy năm 1150
Trong khoảng thời gian từ 1145 đến 1149, đế quốc Chân Lạp đã cai trị miền bắc Chiêm Thành và như thế đế quốc này tiếp giáp Đại Việt ở phía tây nam. Do Suyrayavarman II phải đối phó với cuộc kháng chiến mạnh mẽ của hai đời vua ở nam Chiêm Thành nên tạm hòa hoãn với Đại Việt. Năm 1149 thất bại ở Chiêm, vua Suyrayavarman II lại thân chinh đánh Đại Việt vào năm 115O.Lúc bấy giờ vua Lý Anh Tông chỉ mới 10 tuổi, nhưng các quan văn võ vẫn có người giỏi phò tá, trong đó có thái phó Tô Hiến Thành là người từng dẹp được giặc Thân Lợi [1141], Thái sư Mậu Du Đô từng được lệnh vua lo tuần phòng biên giới...Nói chung việc canh phòng của Đại Việt rất cẩn mật. Đại Việt sử ký toàn thư chép: " Canh Ngọ [1450], Đại Định năm thứ 11...Mùa xuân, tháng 3, hạn. Mùa thu, tháng 7 hạn. Tháng 9, người Chân Lạp cướp châu Nghệ An, đến núi Vụ Thấp gặp nắng nóng ẩm thấp, phần nhiều chết vì lam chướng bèn tự tan vỡ" (sđ d, tr 318).

Vùng núi Vụ Quang, Hương Sơn, Hà Tĩnh là tử địa
của tàn binh Chân Lạp do Suyrayavarman II chỉ huy năm 1150
Các nhà sử học khi nghiên cứu văn khắc trên bia đá ở Awngko Wat, thừa nhận Suyrayavarman II từng xâm lược Chiêm, Đại Việt trong khoảng từ 1145 đến 1150. Năm 1149 bị vua Chiêm anh hùng Jaya Harivarman IV từ phía nam đánh tới, dồn quân Chân Lạp lui dần về phía bắc. Có khả năng, vào năm 1150, cuộc tháo lui của quân Chân Lạp ở thế thua đối với quân quật khởi Chiêm Thành, lại trở thành chiến dịch xâm lược Đại Việt. Quân Chân Lạp lúc này vẫn còn do Suyrayavarman II chỉ huy, không những dùng thủy binh mà còn dùng tượng binh, bộ binh trong trạng huống "thiên không thời" (hạn hán kéo dài từ xuân đến thu), "địa chẳng lợi"(Chiêm Thành đang hừng hực kháng chiến, Đại Việt lo phòng vệ cẩn mật), "nhân không hòa"(cả người Chiêm và người Đại Việt đều oán hận đế quốc Chân Lạp) cho nên đoàn quân xâm lược của Suyrayavarman II đã có một kết thúc bi thảm ở núi Vụ Thấp, còn gọi núi Vụ Ôn, tức núi Vụ Quang ở huyện Hương Sơn tĩnh Hà Tĩnh. Có khả năng Suyrayavarman II và phần nhiều binh lính của ông vua hiếu chiến đã chết thảm vì lam chướng ở tử địa Vụ Quang, quân Chân Lạp còn lại như rắn mất đầu và chỉ còn số ít nên tự tan vỡ. Ăngko Wat hoành tráng đầy kiêu hãnh do Suyrayavarman II khai sinh, nhưng cũng là nổi đau của linh hồn Suyrayavarman II đang vất vưỡng đâu đó trong mây núi Vụ Quang ; bởi không có một phiến đá nào ở Awngko Wat ghi lại ngày tháng năm tử trận của một hoàng đế đầy tham vọng. Tự hào thay, con cháu họ Lý của miền Diên Uẩn-Cổ Pháp, những hậu duệ kiệt hiệt của dòng họ Lý Lĩnh Nam, nối tiếp dòng máu bất khuất của người anh hùng Lý Nam Đế, từng trị vì đất nước Vạn Xuân vang bóng một thời độc lập tự chủ.

Ảnh bầu trời đền Lý Bát Đế, trong ngày kỵ vua Lý Anh Tôn,
có các đám mây như rồng chầu về ngôi đền (G.W)
29- 9-2010
Trần Viết Điền

Tam độc

TAM ĐỘC: THAM, S ÂN, SI
THAM
 “Tham” là tham lam. Ham muốn thái quá. Đắm say, thích thú muốn có nhiều những thứ mình ưa thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng v.v… Lòng ham đó chẳng hề biết chán, càng được thời càng ham. Tham cho mình, rồi tham cho cả bà con quyến thuộc, quốc gia, xã hội của mình. Cũng vì lòng tham, mà nhân loại tranh giành giết hại lẫn nhau. Kẻ tham hay ghen ghét những người thành tựu. 

Nếu có tâm tham thời phải “tu tâm” ngay, phải tập tính “thiểu dục tri túc”. Thiểu dục là muốn ít, tri túc là biết đủ. Người thiểu dục, tri túc thì có một đời sống giản dị, thanh cao và an toàn vì biết đủ với những thứ mình đã có. Bỏ dần lòng tham đi để đạt tới được “vô tham”. Vô tham là không tham lam.
 Ở đời, có năm món dục lạc, mà người ta thường ham muốn nhất là: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. “Ngũ trần dục lạc” ấy, thật ra, vui ít mà khổ nhiều. Tham tiền thời phải đày đọa thân sống, đôi khi còn dùng những phương tiện bất chính để chiếm đoạt và khi mất thì lại đau khổ. Đối với sắc đẹp nên quán thân là bất tịnh, tham sắc thì nhiều khi lại lao vào những mưu chước tồi tệ để thỏa lòng dục vọng. Tham danh vọng, quyền tước thì phải vào lòn ra cúi, lao tâm khổ trí. Tham ăn uống cao lương mỹ vị thì bị nhiều bệnh khó trị, thân thể mệt nhọc, mạng sống không thọ. Tham ngủ nghỉ thì trí não hóa đần độn. Ngũ trần dục lạc đó chính là những nguyên nhân ràng buộc kiếp người vào vòng sinh tử, luân hồi, sa đọa. 
 Truyện tích kể rằng một phú gia không con, chết đi, bỏ lại tất cả tài sản sự nghiệp lớn lao. Vua truyền lệnh cho nhập gia sản của ông vào quốc khố và đến hầu Đức Phật. Vua bạch lại tự sự với Đức Phật và ghi nhận rằng mặc dầu nhà phú gia này ở gần nơi Đức Phật ngự, không bao giờ ông để bát cúng dường Ngài. Nhân cơ hội này Đức Phật kể thêm về tiền kiếp của phú gia là đã từng làm việc thiện bằng cách cúng dường một vị Bích Chi Phật nhưng lại tiếc của đem cúng và còn phạm một tội ác là giết cháu ruột để giành gia tài của anh mình. Đức Phật nhân đó dạy rằng: 
(Pháp Cú 355) 
Giàu sang, tài sản dồi dào 
Chỉ làm hại được kẻ nào ngu thôi, 
Dễ gì hại được những người 
Đang cầu giác ngộ hướng nơi Niết Bàn, 
Chỉ vì ham muốn giàu sang 
Kẻ ngu tự hại bản thân đã đành 
Hại thêm cả kẻ xung quanh. 
 Đức Phật ngợi khen người không tham lam và khuyên mọi người nên cúng dường các vị đó. Nhưng khi bố thí nên suy xét kỹ càng. Làm vậy sẽ tương tự như nếu đem hạt giống mà gieo trên đất lành, đất màu mỡ thời hạt mới đơm hoa, kết trái sum suê. Nếu gặp người thọ thí có đức hạnh mà bố thí sẽ được phước báu nhiều. Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Đức Phật dạy tham như cỏ hoang làm hại ruộng nương, đây là làm hại “đất tâm” của người tu hành và trị tham chẳng gì hơn là việc bố thí:
(Pháp Cú 356) 
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn 
Tham lam gây hại nhiều hơn cho người, 
Tham lam ai đã lìa rồi 
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng 
Hưởng về phước báu vô vàn.
 Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người không tham muốn thì được thành tựu những điều tốt đẹp sau đây: Ba nghiệp thân, khẩu, ý được tự tại, của cải không bị mất mát, hưởng phúc đức và những sự tốt đẹp sẽ đến với mình, mặc dù mình không mong ước. 
 Đức Phật còn dạy là đừng để tham và sân, đừng để tội lỗi lôi mình vào cảnh khổ. Tội lỗi ở đây nghịch nghĩa với chánh hạnh, là không theo giáo pháp, trong câu sau này có nghĩa là sân hận. Căn nguyên của điều ác là tham lam và sân hận:
(Pháp Cú 248) 
Các ngươi nên biết rõ rằng 
Dễ gì chế ngự việc làm ác đâu 
Tham lam, tội lỗi hố sâu 
Kéo ta xuống chốn khổ đau đời đời.
SÂN
 “Sân” là cơn giận, lòng giận dữ, nóng nảy, thù hận khi không vừa lòng, không được thỏa thích như ý muốn. Bất bình vì bị xúc phạm, nhân đó làm những chuyện sai trái. Sau cơn giận thời giữ lại lòng oán ghét tìm dịp mà trả thù. 

Sở dĩ sân sinh khởi là do lòng yêu thích “cái ta” hay thích “cái của ta”. Nếu người ta mắng nhiếc, chê bai kẻ nào khác thời ta không thấy giận, nhưng nếu ai chửi bới hoặc khiển trách ta hay người thân của ta, hoặc làm tổn hại tài sản của ta lập tức ta cảm thấy khó chịu ngay. Khi khó chịu tăng dần thời sẽ trở thành nóng giận. Nhưng nên nhớ rằng trên đời này không ai tránh khỏi bị khiển trách, bị chê bai, khó tránh khỏi miệng thế gian như Đức Phật đã từng đưa nhận xét:
(Pháp Cú 227) 
Người con Phật hãy nghe đây 
Chuyện không phải chỉ đời này mà thôi 
Từ đời xưa đã nói rồi: 
“Làm thinh thời sẽ có người chê bai, 
Nói nhiều cũng bị chê hoài, 
Dù cho nói ít cũng người chê thôi”. 
Làm người không bị chê cười 
Thực là chuyện khó ở nơi cõi trần.
 Trong quá khứ, trong tương lai và trong hiện tại chưa hề có người nào bị tất cả mọi người chê bai hay được tất cả mọi người khen ngợi, đúng như lời Đức Phật dạy:
(Pháp Cú 228) 
Ở đời toàn bị chê bai 
Hay toàn nghe tiếng người ngoài khen ta 
Từ xưa chẳng thấy xảy ra, 
Tìm trong hiện tại thật là khó sao, 
Tương lai cũng chẳng có nào.
 Nhưng vì bị chê bai mà nổi sân thời tai hại vô cùng vì lúc nóng giận thì con người không còn đủ bình tĩnh để tự kiểm soát hành vi và ngôn ngữ của mình. Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.” Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”
 Phải tu tâm để đạt tới “vô sân”. Vô sân là không nóng nảy, hết giận hờn. Chúng sinh bị qua nhiều kiếp sinh tử luân hồi chính vì không thắng nổi lòng sân. Chư Phật được tự tại, giải thoát, là do dứt trừ được lòng sân tận gốc. Điều khó nhất là diệt trừ phẫn nộ ngay từ trong tâm. Khi tâm chúng ta không còn nghĩ đến giận hờn thì tự nhiên cơn phẫn nộ sẽ không bộc phát. Trong khi đốn cây để cất tịnh thất cho mình, thầy Tỳ kheo nọ vô tình làm tổn hại đến cái chồi non của một vị thần cây. Vị này nổi giận, muốn giết thầy nhưng kịp nghĩ suy nên kiềm chế được cơn sân hận của mình đang phát sinh. Đức Phật tán dương vị thần và dạy:
 (Pháp Cú 222) 
Khi cơn giận dữ bùng ra 
Ai mà ngăn được mới là người hay 
Giỏi như hãm lại được ngay 
Chiếc xe đang chạy chở đầy, phóng nhanh, 
Nếu không thì bản thân mình 
Cầm cương hờ hững tài tình gì đâu.
 Đại đức Mục Kiền Liên hỏi thăm nhiều vị Trời nhờ công đức gì mà được tái sinh vào cảnh trời. Các vị này kể ra những hành động xem ra có vẻ không quan trọng lắm như chân thật, nhẫn nại và bố thí v.v… Khi ngài Mục Kiền Liên bạch hỏi Đức Phật vậy những hành động tuy nhỏ nhưng tốt lành có thể nào dẫn đến các cõi trời không, Đức Phật dạy: 
(Pháp Cú 224) 
Nói lời chân thật luôn luôn, 
Dẹp cơn nóng giận dỗi hờn khó coi, 
Dù ta có ít của thôi 
Cũng chia bố thí cho người đến xin, 
Nhờ ba việc tốt lành trên 
Đưa ta đến cõi chư thiên, cõi trời.
 Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Đức Phật dạy rằng cỏ dại làm hại ruộng vườn thời lòng sân hận cũng làm hại loài người. Vì vậy người nào diệt hết lòng sân hận thì người đó đáng được ngưỡng vọng và khâm phục: 
(Pháp Cú 357) 
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn 
Lòng sân gây hại nhiều hơn cho người, 
Ai lìa sân hận được rồi 
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng 
Hưởng về phước báu vô vàn.
 Voi là một con vật quan trọng hàng đầu trong số những thú vật được con người huấn luyện để sử dụng. Giống như voi với sức mạnh có thể bứng gốc một thân cây, quấn vòi quanh thân cây ấy để mang đi dễ dàng, Đức Phật dạy rằng con người cũng có thể tạo cho mình tiềm lực vật chất, nghị lực tinh thần, lòng kiên nhẫn và sức mạnh, chẳng khác một con voi thuần thục. Luyện được lòng nhẫn nhục mới là khó:
(Pháp Cú 321) 
Luyện voi dự hội, tài thay 
Luyện voi vua cưỡi cũng hay vô cùng, 
Nhưng mà nếu luyện được lòng 
Luôn luôn nhẫn nhục, chẳng còn nổi sân 
Khi nghe phỉ báng bản thân 
Mới là điêu luyện, muôn phần tài hơn.
 Đức Phật dạy rằng tự chế ngự được mình mới là điều rất quý và người chịu cố gắng, đủ nhẫn nại để tự huấn luyện mình thời cũng sẽ được hưởng kết quả tốt lành như người đã khéo huấn luyện các con thú vật như la, ngựa và voi. Con người thuần thục, giới đức trang nghiêm là hơn tất cả:
(Pháp Cú 322) 
Con la được huấn luyện qua 
Trở nên thuần tánh, tỏ ra tốt lành, 
Ngựa nòi sinh chốn sông xanh 
Sau khi huấn luyện, trở thành ngựa hay, 
Voi ngà to lớn quý thay 
Sau khi huấn luyện voi này tuyệt luân, 
Con người nếu chính bản thân 
Tự mình thuần hóa được luôn chính mình 
Mới là người thật tài tình!
 Đức Phật khuyên chúng sinh hãy từ bỏ cả tham lẫn sân. Ngài ví một chiếc thuyền như thể xác, như tấm thân con người do năm uẩn tạm hợp. Thân này sẽ tan rã vì vô thường, nên xét kỹ thời thấy nó quả thật trống không. Nước trong thuyền là những tư tưởng xấu cần diệt trừ. Tát cho khô nước tức là dập tắt ngay lửa tham sân. Khi thuyền khô cạn nước thời thuyền trở nên nhẹ nhàng để mau chóng qua bờ. Thân tâm dẹp sạch tham dục và sân hận thời trở nên thanh tịnh, đó là điều kiện tốt để sớm chứng được cảnh Niết Bàn:
 (Pháp Cú 369) 
Tỳ Kheo tát nước thuyền này 
Thuyền không nhẹ nhõm xuôi ngay theo dòng, 
Tham và sân trừ diệt xong 
Thân này cũng nhẹ thoát vòng nhiễm ô 
Niết Bàn mau chóng qua bờ.
 Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người nào không nổi sân, thì tâm không khổ não, tâm không tranh giành, tâm nhu hòa ngay thẳng, tâm từ bi như Phật, thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sinh, thân tướng trang nghiêm được chúng sinh tôn kính và vì có đức nhẫn nhục nên sẽ được mau sinh lên cõi Phạm Thiên. 
SI
 “Si” là si mê, vô minh, ngu tối. Người vô minh không sáng suốt, không suy xét hiểu biết đúng lẽ phải, đúng sự thật để phán đoán việc hay dở, tốt xấu, lợi hại v.v… nên mới làm những điều nhiễm ô tội lỗi, có hại cho mình và người. Si, vô minh theo thế tục gọi là “dại” hay “ngu”. Vô minh che lấp tâm trí, làm cho con người không còn nhìn thấy được những chất bợn nhơ đang gậm nhấm từ bên trong con người khiến các thói hư tật xấu ấy sẽ tăng dần và cuối cùng đưa con người vào con đường tội lỗi triền miên. Đức Phật dạy rằng vô minh là điều ô trược tệ hại nhất. Hãy dứt bỏ vô minh để trở thành người trong sạch
 Hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên bạch với Đức Phật rằng họ không thể thuyết phục được ông thầy của họ trước kia đến gặp Đức Phật và nghe giáo pháp vì vị này còn quá luyến ái tín đồ riêng. Nhân dịp này Đức Phật giải thích sự khác biệt giữa người suy luận chân chính với người suy luận sai lầm và hậu quả dĩ nhiên của mỗi lối suy luận:
 (Pháp Cú 11) 
Những gì không thật, hão huyền 
Lại cho là thật và tin vô bờ, 
Những gì chân thật lại ngờ 
Lại cho không thật, chỉ là giả thôi, 
Nghĩ suy lầm lạc mất rồi 
Thấy sao chân thật rạng nơi pháp mầu.
(Pháp Cú 12) 
Biết đây là thật để tin 
Biết kia không thật, hão huyền mà thôi 
Nghĩ suy theo đúng đường rồi 
Thấy ngay chân thật rạng nơi pháp mầu.
 Với hai câu Pháp Cú kể trên, chúng ta đã thấy vai trò chủ yếu của vô minh và tà kiến trong các nguồn gốc phát sinh các hành vi bất thiện. Như vậy chúng ta cũng không lạ gì khi Đức Phật khuyên chúng ta không nên tu theo lối khổ hạnh khắt khe, ép xác, chỉ nhắm vào bề ngoài và không nên chuyên lo tế tự, vì những hành động này không dẫn chúng ta đến giác ngộ giải thoát, không giúp chúng ta trở nên trong sạch. Thấy một vị Tỳ kheo có nhiều đồ đạc, của cải riêng tư, lại thêm có nhiều y, Đức Phật quở rầy. Thầy giận, cởi bỏ hết áo cà sa mặc bên ngoài quăng đi, chỉ mặc chiếc áo cánh ở trong thôi. Đức Phật thuật lại câu chuyện tương tự đã xảy ra trong tiền kiếp của thầy. Ngài khuyên đi tu phải sống đạm bạc, trong tâm phải biết hổ thẹn khi làm điều quấy và biết lo sợ khi phạm tội lỗi. Muốn thanh lọc thân tâm thì cần dứt bỏ lòng hoài nghi:
(Pháp Cú 141) 
Dù tu khổ hạnh triền miên 
Trần truồng, bện tóc, tro đen xoa mình 
Nhịn ăn, nằm đất, lăn sình 
Sống dơ, ngồi xổm để hành xác thân 
Nào đâu thanh tịnh được tâm 
Nếu không trừ dứt đi phần hoài nghi.
 Một thời ở Ấn Độ vẫn còn tồn tại nhiều hình thức khổ hạnh. Lớp dơ dáy bên ngoài được vài người xem là dấu hiệu của bậc thánh nhân. Đức Phật không chấp nhận hình thức khổ hạnh khắt khe chỉ nhắm vào bề ngoài như thế. Các tu sĩ theo con đường tu hành của Ngài phải đi theo một con đường ở khoảng giữa, đó là “trung đạo”. Phải tránh hai cực đoan, một là khổ hạnh và đường khác là lợi dưỡng. Giản dị, khiêm tốn, thanh đạm cùng với lối sống sạch sẽ là những đặc tính chính yếu của chư vị Tỳ kheo. Hơn nữa muốn cho tâm ta được thanh tịnh thời cần dứt bỏ đi phần hoài nghi vì nếu chưa nhiếp phục được hoài nghi tức là không có niềm tin nơi Phật, Pháp và Tăng.
 Đức Phật dạy rằng dù cho có tế thần lửa trong một thế kỷ không bằng trong giây lát tôn kính bậc chân tu hoàn toàn trong sạch, có đạo hạnh. Cháu của ngài Xá Lợi Phất, theo lời thầy của anh ta truyền dạy nên anh có thói quen mỗi tháng giết thú vật và đốt lửa rừng tế thần để cầu mong được tái sinh vào cảnh trời. Ngài Xá Lợi Phất đem cháu đến hầu Phật và Đức Phật chỉ dạy, hướng dẫn người cháu về con đường chân chính nên theo:
 (Pháp Cú 107) 
Trăm năm ở tại rừng sâu 
Dốc lòng thờ lửa cũng đâu sánh bằng 
Chỉ trong giây lát cúng dường 
Những người đạo hạnh một đường chân tu 
Thật là công đức vô bờ 
Hơn là thờ lửa mê mờ trăm năm.
 Đức Phật cũng dạy rằng kính lễ một vị đắc quả thánh, một bậc chánh hạnh, dù chỉ là trong giây lát cũng đem lại công đức và thập phần quý hơn là cúng dường lễ vật hoặc vật thực đến người phàm tục. Một người bạn của ngài Xá Lợi Phất hằng năm tiêu phí rất nhiều tiền để giết thú tế thần và mở hội bố thí rộng rãi. Đức Phật thuyết phục ông ta trở về lối cúng dường chân chính:
 (Pháp Cú 108) 
Suốt năm bố thí, cúng dường 
Để cầu phước báu chẳng bằng so ra 
Phần tư công đức của ta 
Khi ta kính lễ những nhà chân tu 
Thanh cao, chính trực vô bờ.
 Thường thời không sợ “tham” và “sân” nổi lên, mà chỉ sợ mình tự giác ngộ chậm, chỉ sợ mình si mê, vô minh mà thôi. Nếu “tham” và “sân” nổi lên, mà ta sáng suốt phán đoán kịp thời, không có si mê, thì tham sân kia cũng chẳng làm gì được. Người học Phật phải dẹp trừ lòng si mê của mình, lúc nào cũng phải sáng suốt đối với tất cả mọi việc, phải tu tâm để đạt được “vô si”. Vô si là không mờ ám, không si mê. Đối với tất cả mọi việc, lúc nào cũng có trí tuệ sáng suốt, suy xét, phán đoán việc tà chính, hay dở, phải trái v.v… Do đó, việc làm mới chính đáng, tránh khỏi những điều tai hại, vừa lợi ích cho mình và vừa lợi ích cho người, ở hiện tại cũng như ở tương lai. Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Đức Phật dạy: 
(Pháp Cú 358) 
Cỏ hoang làm hại ruộng vườn 
Si mê gây hại nhiều hơn cho người, 
Si mê ai đã lìa rồi 
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng 
Hưởng về phước báu vô vàn.
 Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người không si mê, thì thành tựu được các pháp công đức sau đây: được ý vui chân thiện và bạn chân thiện; tin nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác; chỉ quy y Phật; tâm ngay thẳng, có chính kiến; sinh lên cõi trời, khỏi bị đọa vào ba đường ác; hưởng phúc huệ; không lòng chấp ngã, bỏ hết ác nghiệp và khỏi bị nạn dữ v.v…
TAM ĐỘC
 Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng tam độc “tham, sân, si” là những nguyên nhân gây ra bất hạnh và phiền não, ưu tư cho con người. Tham, sân, si có thể được tìm thấy một cách dễ dàng nơi hành động, ngôn ngữ, và ý nghĩ của chính mình cũng như của kẻ khác. Kinh nghiệm cho ta biết bất cứ ở đâu hay lúc nào, nếu tham sân si có mặt và ngự trị thì cuộc sống riêng hay chung đều trở nên xấu xa đau khổ. Tham sân si là sản phẩm của con người và xã hội và chính chúng là nguyên nhân làm hư hại cuộc sống an lành của loài người giống như bông tre nở từ cây tre và là biểu tượng suy tàn của cây tre, nghĩa là khi tre trổ bông là lúc tre tàn lụi.
 Một số đại phú gia đã lớn tuổi rồi mới đi tu. Một bà vợ của một người trong nhóm đó nấu nướng rất khéo léo nên hằng ngày họ thường mang bình bát trở lại đây để khất thực. Bà thí chủ cúng dường thức ăn đồ uống rất ngon lành. Khi bà này chết họ thương nhớ, than khóc, kể lể. Đức Phật khuyên các thầy “Thực hành tâm không luyến ái vì khi nào còn rừng rậm tham, sân, si thời các thầy còn chịu đau khổ. Hãy đốn ngã rừng cây ấy các thầy mới được giải thoát”:
(Pháp Cú 283) 
Đốn rừng nhưng chớ chặt cây, 
Đốn rừng tham ái với đầy sân si 
Chính do rừng dục vọng kia 
Mà bao sợ hãi dễ bề sinh ra 
Rừng to, rừng nhỏ quanh ta 
Cả hai rừng đó mau mà đốn đi, 
Các Tỳ Kheo hãy thoát ly 
Thoát rừng dục vọng muôn bề tối tăm.
 Hãy đốn rừng, nhưng không chặt cây thật. Khi Đức Phật vừa nói “hãy đốn rừng”, có vài vị Tỳ kheo hiểu sai, theo nghĩa trắng. Đọc ngay được tư tưởng sai lầm ấy Đức Phật nhấn mạnh thêm, dạy rõ rằng rừng đây không phải là cây thật sự mà chỉ là đám rừng của những dục vọng như tham ái, sân hận và si mê. Do rừng dục vọng mà phát sinh sợ sệt. Hãy đốn ngã cả hai thứ rừng, rừng cây to và rừng cây nhỏ của dục vọng. Ở đây, cây to là những dục vọng lớn, có nhiều mặt năng lực và cây nhỏ là những dục vọng nhỏ, ít năng lực hơn. 
 Trong khi dạy cho con người biết “Tham, Sân, Si” là nguyên nhân của cuộc sống đau khổ, cần phải tiêu diệt, Đức Phật cũng nói cho chúng ta biết còn có ba pháp nữa là “Vô tham, Vô sân, Vô si” là những yếu tố tâm lý cần nên phát triển để xây dựng cuộc sống an lành. Muốn phát triển ba pháp thiện này chúng ta phải tu dưỡng theo chánh đạo gồm “Giới, Định và Tuệ”.
 Lời khuyên thời thật dễ dàng, nhưng loài người đâu có dễ dàng phục thiện. Vì con người, đã lâu đời lâu kiếp bị những phiền não căn bản nhiếp phục chi phối. Một lần nọ Đức Phật thuyết Pháp cho năm người nghe, chỉ có một người chăm chú nghe, còn những người kia thì lơ đễnh, không để ý đến lời khuyên dạy của Ngài. Một người ngủ gục, một người lấy ngón tay vẽ xuống đất, một người ngồi gần gốc cây lắc nhẹ cành lá, một người ngẩng nhìn trời xanh. Đức Phật giảng rằng sở dĩ như vậy là do những khuynh hướng, các thói quen của họ đã có từ nhiều kiếp trong quá khứ. Khi Đại đức A Nan bạch hỏi rõ lý do, Đức Phật giải thích thêm rằng đó là do bốn nguồn cội “tham, sân, si, và ái dục”:
 (Pháp Cú 251) 
Lửa nào có thể sánh ngang 
Lửa tham dục nọ dữ dằn vô biên, 
Không còn cố chấp nào bền 
Bằng tâm sân hận nổi lên cấp kỳ, 
Lưới nào trói buộc dầm dề 
So ra với lưới ngu si buộc ràng, 
Sông nào chìm đắm cho bằng 
Dòng sông ái dục cuốn phăng bao người. 
 Có hai vị Tỳ kheo. Một, thông suốt giáo pháp nhưng còn là phàm tăng, không thực hành những điều đã học. Vị kia, tuy không học nhiều nhưng thực hành trọn vẹn giáo pháp, từ bỏ tham, sân, si, nên đã đắc quả A La Hán, chứng ngộ Niết Bàn, thọ hưởng quả vị của đời sống thiêng liêng đạo hạnh. Một hôm vị phàm tăng muốn gây rối cho vị thánh tăng trước mặt Đức Phật nên đặt ra nhiều câu hỏi gút mắc. Biết rõ ý định thấp hèn ấy, Đức Phật nêu ra vài câu hỏi có liên quan đến sự chứng ngộ giáo pháp. Theo kinh nghiệm bản thân, vị A La Hán trả lời được tất cả nhưng vị phàm tăng thì không, vì không thành tựu được thánh đạo nào. Nhân dịp này, Đức Phật ca ngợi vị A La Hán đã thực hành giáo huấn của Ngài, mặc dầu không thông suốt giáo pháp bằng vị phàm tăng:
 (Pháp Cú 20) 
Dù cho chỉ tụng ít kinh 
Nhưng theo giáo pháp thực hành sớm khuya 
Hết tham, hết cả sân, si 
Lòng luôn tỉnh giác, tâm thì hiền lương 
Trước sau giải thoát mọi đường 
Tu hành lợi ích ngát hương muôn đời.
 Theo Phật Giáo, pháp học sẽ không bổ ích nếu không thật sự thực hành điều đã học. Như vậy, Phật Giáo không phải là một triết học suông mà là con đường giác ngộ duy nhất.
 Một thiếu phụ trẻ đẹp được người cha dẫn đến giới thiệu để làm vợ Đức Phật vì người cha trông thấy tướng mạo trang nghiêm của Ngài. Nhưng Đức Phật từ chối. Ngài cho biết trước đây khi Ngài sắp thành Đạo dưới cội bồ đề Ma Vương từng cho ba người con gái tuyệt đẹp cố gắng lấy nhan sắc đến nơi để quyến rũ Ngài, nhưng tất cả đều thất bại. Ba người con gái đó là các nàng Tham ái, Ác cảm và Dục vọng. Giờ đây không ai có thể dùng bất cứ hình thức nào để dụ dỗ Ngài sa đọa được. Vì Ngài đã tận diệt mọi dục vọng, không còn dấu vết gì của tham, sân, si nữa. Cuộc chiến thắng tinh thần của Ngài không thể bị lay chuyển:
(Pháp Cú 179) 
Chẳng ai hơn nổi con người 
Đã từng thắng phục được nơi dục tình 
Người như vậy chính thân mình 
Ở đời không sợ dục tình dõi theo 
Mênh mông Phật giới cao siêu 
Tham, sân, si dấu tích đều còn đâu 
Các ngươi cám dỗ dễ nào.
(Pháp Cú 180) 
Lưới mê được giải tỏa rồi 
Dục tình kia khó tìm người dõi theo 
Mênh mông Phật giới cao siêu 
Tham, sân, si dấu tích đều còn đâu 
Các ngươi cám dỗ dễ nào!
 Việc thực hiện con đường đi ra khỏi “tham, sân, si” luôn luôn được Đức Phật quan tâm và khuyến khích các đệ tử của Ngài hành trì để từ đó các pháp an lạc được tăng trưởng và các pháp khổ đau được diệt trừ. Nếu không khéo hành trì thì không những các khổ đau tăng trưởng mà các thiện pháp cũng bị tiêu trừ. Nếu ai ráng tu tập và trau dồi tâm trí để thoát khỏi vòng phiền não “tham, sân, si” tất nhiên người ấy sẽ được hoàn toàn giải thoát.